Ngày 28/9/2020, Chính phủ đã ban hành Nghị định 117/2020/NĐ-CP về việc quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực y tế, có hiệu lực từ ngày 15/11/2020, thay thế Nghị định số 176/2013/NĐ-CP ngày 14/11/2013 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạ
Chủ nhật, 22/12/2024
CÔNG ƯỚC KHUNGTOÀN VĂN CÔNG ƯỚC
Công ước Khung của Tổ chức Y tế Thế giới về Kiểm soát Thuốc lá

1. Giới thiệu về công ước khung
Văn bản này đã được đưa ra tại phiên họp toàn thể cuối cùng của vòng đàm phán thứ  sáu Cơ quan Đàm phán Liên Chính phủ vào ngày 1 tháng 3 năm 2003. Hội nghị đã đồng ý rằng văn bản này sẽ được chuyển tới Đại Hội đồng Y tế Thế giới lần thứ  56 vào tháng 5 năm 2003.
Quyết tâm dành ưu tiên cho quyền bảo vệ sức khoẻ công cộng,
Nhận thức rằng sự lan rộng của nạn dịch thuốc lá là một vấn đề toàn cầu với những hậu quả nghiêm trọng đối với sức khoẻ công cộng, đòi hỏi phải có sự hợp tác quốc tế và sự tham gia rộng rãi nhất của tất cả các nước trong một nỗ lực quốc tế hữu hiệu, phù hợp và toàn diện để đối phó với nạn dịch này,
Phản ánh mối lo ngại của cộng đồng quốc tế về các hậu quả tàn phá trên qui mô toàn thế giới về sức khoẻ, xã hội, kinh tế và môi trường do việc tiêu thụ thuốc lá và phơi nhiễm với khói thuốc gây ra,
Hết sức lo ngại về  sự gia tăng trong tiêu thụ và sản xuất thuốc lá và các sản phẩm thuốc lá khác trên toàn cầu, đặc biệt tại các nước đang phát triển, cũng như trước gánh nặng mà tình trạng này gây ra đối với các gia đình, người nghèo và các hệ thống y tế quốc gia,
Nhận thức rằng các bằng chứng khoa học đã chứng minh một cách rõ ràng rằng việc sử dụng thuốc lá và phơi nhiễm với khói thuốc là nguyên nhân dẫn đến tử vong, bệnh tật và tàn phế và rằng có một khoảng cách về thời gian từ khi bắt đầu phơi nhiễm với khói thuốc và những sử dụng khác của  sản phẩm thuốc lá đến khi có các biểu hiện về các bệnh tật liên quan đến thuốc lá,
Cũng nhận thức rõ rằng thuốc lá và  một số sản phẩm khác chứa thuốc lá được chế tạo một cách tinh xảo nhằm mục đích tạo ra và duy trì sự phụ thuộc vào thuốc lá và rằng nhiều hợp chất chứa trong thuốc lá và khói do thuốc lá sinh ra có hoạt tính dược lý,  độc hại,  gây biến đổi gen và  gây ung thư, và rằng riêng sự phụ thuộc vào thuốc lá đã được xếp loại là một tình trạng rối loạn trong các  phân loại về bệnh tật của quốc tế .
Công nhận rằng có bằng chứng khoa học rõ ràng cho thấy việc phụ nữ có thai phơi nhiễm với khói thuốc sẽ gây hại  đối với sức khoẻ và điều kiện phát triển của trẻ em,
Lo ngại sâu sắc về sự gia tăng trong việc hút thuốc lá và các hình thức sử dụng thuốc lá khác ở trẻ em và thiếu niên toàn cầu, đặc biệt là việc hút thuốc ở các lứa tuổi ngày càng trẻ.
Báo động về tình trạng gia tăng hút thuốc và các hình thức sử dụng  thuốc lá khác trong phụ nữ và  thiếu nữ trên toàn thế giới và nhận thức rõ nhu cầu phải có sự tham gia đầy đủ của phụ nữ tại tất cả các cấp của quá trình hình thành và thực hiện chính sách và nhu cầu phải có các chiến lược chú trọng tới vấn đề giới trong kiểm soát thuốc lá.
Lo ngại sâu sắc về mức độ cao về  hút thuốc lá và sử dụng thuốc lá dưới các dạng khác  trong những người  bản xứ,
Lo ngại sâu sắc về tác động của tất cả các hình  thức quảng cáo,  khuyến mãi và  tài trợ nhằm khuyến khích sử dụng các sản phẩm thuốc lá,
Nhận thức rằng  cần phải có hành động hợp tác nhằm xóa bỏ tất cả các hình thức buôn bán bất hợp pháp thuốc lá và các sản phẩm thuốc lá khác, bao gồm buôn lậu, sản xuất bất hợp pháp  và sản xuất thuốc lá giả,
Nhận thức rõ rằng việc kiểm soát thuốc lá ở tất cả các cấp và đặc biệt là tại các nước đang phát triển và tại các nước có nền kinh tế trong thời kỳ quá độ đòi hỏi phải có đủ các nguồn lực tài chính và kỹ thuật tương xứng với các nhu cầu hiện tại và nhu cầu dự báo  cho các hoạt động kiểm soát thuốc lá,
Nhận rõ  sự cần thiết xây dựng những cơ chế phù hợp nhằm giải quyết các hệ luỵ lâu dài về  kinh tế và xã hội  của các chiến lược giảm cầu thuốc lá thành công,
Quan tâm đến những khó khăn về kinh tế và xã hội mà các chương trình kiểm soát thuốc lá có thể gây ra trong thời gian trung hạn và dài hạn tại một số nước đang phát triển và các nước có nền kinh tế trong thời kỳ quá độ và nhận thức rõ nhu cầu được hỗ trợ về tài chính, và kỹ thuật của các nước này trong các chiến lược phát triển quốc gia bền vững.
Ý thức rõ  về việc làm có giá trị mà nhiều Quốc gia đang tiến hành để kiểm soát thuốc lá và ca ngợi vai trò lãnh đạo của TCYTTG cũng như  nỗ lực của các tổ chức và cơ quan khác trong hệ thống Liên Hợp Quốc và các tổ chức quốc tế các tổ chức liên chính phủ khu vực khác trong việc xây dựng các biện pháp kiểm soát thuốc lá,
Nhấn mạnh sự đóng góp quan trọng đặc biệt của của các tổ chức phi chính phủ và các thành viên khác trong xã hội dân sự không gắn kết với ngành công nghiệp thuốc lá bao gồm các hội chuyên môn y tế, các tổ chức  phụ nữ, thanh niên, các nhóm về môi trường và người tiêu dùng và các cơ  sở y tế và các viện nghiên cứu vào các nỗ lực kiểm soát thuốc lá  quốc gia và quốc tế, và tầm quan trọng thiết yếu của sự tham gia của các tổ chức này  trong các nỗ lực kiểm soát thuốc lá  quốc gia và quốc tế,
Nhận thức  nhu cầu phải cảnh giác đối với bất kỳ cố gắng nào của ngành công nghiệp thuốc lá nhằm làm suy yếu hoặc phá hoại các cố gắng kiểm soát thuốc lá và  nhu cầu cần được thông tin về các hoạt động của ngành công nghiệp thuốc lá mà những hoạt động này có tác động  tiêu cực đối với các nỗ lực kiểm soát thuốc lá.
Nhắc lại Điều 12 của Công ước Quốc tế về Quyền  Kinh tế, Văn hoá và Xã hội do Đại hội đồng Liên Hợp Quốc thông qua ngày 16 tháng 12 năm 1966 khẳng định quyền của tất cả mọi người được hưởng mức độ sức khoẻ về thể lực và tâm thần cao nhất mà họ có thể đạt được.
Khẳng định lại Lời nói đầu trong Hiến chương của TCYTTG, nêu rõ việc đạt được mức độ cao nhất về sức khoẻ là một trong những quyền cơ bản của mỗi người, không phân biệt chủng tộc, tôn giáo, chính kiến, điều kiện kinh tế  hoặc xã hội,
Quyết tâm tăng cường  các biện pháp kiểm soát thuốc lá dựa trên việc xem xét các  điều kiện phù hợp hiện tại về khoa học, kỹ thuật và kinh tế.
Nhắc lại Công ước  về Loại bỏ  Mọi Hình thức Phân biệt đối xử chống Phụ nữ do ĐHĐ Liên Hợp Quốc thông qua ngày 18 tháng 12 năm 1979 quy định rằng các Quốc gia tham gia Công ước này sẽ tiến hành các biện pháp thích hợp để loại bỏ  sự  phân biệt đối xử chống phụ nữ trong lĩnh vực chăm sóc sức khoẻ.
Nhắc lại thêm rằng Công ước về Quyền Trẻ em do ĐHĐ Liên Hợp Quốc thông qua ngày 20 tháng 11 năm 1989, quy định rằng các Quốc gia tham gia Công ước này công nhận quyền của trẻ em được hưởng mức độ sức khoẻ cao nhất có thể có được.
Đã đồng ý như  sau:
2. Nội dung công ước
Điều 1: Sử dụng các thuật ngữ
Đối với các mục đích của Công ước  này:
(a) "buôn bán trái phép" có nghĩa là  bất kỳ  việc hành nghề  hoặc một hành vi nào bị luật pháp cấm mà có liên quan đến việc sản xuất, chuyên chở, nhận , sở hữu, phân phối, bán hoặc mua bao gồm bất kỳ việc hành nghề hoặc hành vi nào nhằm tạo điều kiện cho các hoạt động trên.
(b) “tổ chức hội nhập kinh tế khu vực” có nghĩa là một tổ chức bao gồm các quốc gia có chủ quyền và đối với tổ chức này các Quốc gia Thành viên đã chuyển giao năng lực  trong một loạt các vấn đề bao gồm thẩm quyền đưa ra những quyết định  ràng buộc đối với các Quốc gia Thành viên  liên quan đến những vấn đề đó; [1]
(c) "quảng cáo và khuyến  mãi thuốc lá" có nghĩa là bất kỳ một hình thức thông tin, khuyến cáo hay hành động thương mại nào với mục đích, hiệu quả hoặc có thể gây hiệu quả trực tiếp hoặc gián tiếp  trong việc khuyến  mãi một sản phẩm  thuốc lá hoặc sử dụng thuốc lá;
(d) "kiểm soát thuốc lá" có nghĩa là một loạt các chiến lược giảm cung, cầu, và tác hại của thuốc lá nhằm tăng cường sức khoẻ cho nhân dân bằng cách loại trừ hoặc giảm tiêu thụ các sản phẩm thuốc lá hoặc giảm phơi nhiễm với khói thuốc lá.
(e) "công nghiệp thuốc lá" có nghĩa là các cơ sở sản xuất , các đại lý phân phối bán buôn và các nhà nhập khẩu các sản phẩm thuốc lá.
(f) "các sản phẩm thuốc lá" có nghĩa là các sản phẩm được hoàn toàn hoặc phần nào  tạo ra từ vật liệu lá thuốc được sản xuất để dùng cho việc hút, mút,  nhai hoặc hít;
(g) "tài trợ của các hãng thuốc lá" có nghĩa là bất kỳ hình thức đóng góp trực tiếp hay gián tiếp nào vào bất kỳ sự kiện, hoạt động hoặc cá nhân nào với mục đích, hiệu quả hoặc có thể gây hiệu quả để khuyến mại cho một sản phẩm thuốc lá hoặc sử dụng thuốc lá một cách trực tiếp hoặc gián tiếp;
Điều 2: Mối quan hệ giữa Công ước  này và các hiệp ước và các văn kiện pháp lý khác
1. Để bảo vệ tốt hơn cho sức khoẻ con người, các Bên được khuyến khích thi hành các biện pháp khác ngoài các biện pháp được yêu cầu trong Công ước này và các nghị định thư có liên quan, và không có qui định nào trong các văn kiện này ngăn cản một Bên  áp đặt những yêu cầu chặt chẽ hơn nhất quán với các điều khoản của các văn kiện đó và phù hợp với luật pháp quốc tế.
2. Các điều khoản của Công ước  này và các nghị định thư có liên quan hoàn toàn không ảnh hưởng đến quyền của các Bên tham gia vào các hiệp định song phương hoặc đa phương, bao gồm cả các hiệp định khu vực hoặc tiểu khu vực, về các vấn đề phù hợp hoặc  bổ sung cho Công ước và các nghị định thư có liên quan, với điều kiện là các hiệp định  đó tương xứng với nghĩa vụ của các Bên theo Công ước  và các nghị định thư có liên quan. Các Bên  liên quan sẽ truyền đạt các hiệp định như vậy với Hội nghị các Bên thông qua Ban Thư ký.
Phần II: Mục tiêu, các nguyên tắc  chỉ đạo và các nghĩa vụ chung.
Điều 3: Mục tiêu
Mục tiêu của Công ước này và các nghị định thư có liên quan là nhằm bảo vệ các thế hệ hiện nay và tương lai khỏi các hậu quả tàn phá về sức khoẻ, xã hội, môi trường và kinh tế của việc tiêu thụ thuốc lá và phơi nhiễm với khói thuốc bằng việc cung cấp một khuôn khổ cho các biện pháp kiểm soát thuốc lá do các Bên thực hiện ở cấp quốc gia, khu vực và quốc tế nhằm làm giảm đáng kể và liên tục tỉ lệ người sử dụng thuốc lá và phơi nhiễm với khói thuốc lá.
Điều 4: Các nguyên tắc chỉ đạo
Để đạt được mục tiêu của Công ước này và các nghị định thư có liên quan, và để thực hiện các điều khoản của công ước, các Bên sẽ được hướng dẫn  bởi các nguyên tắc chỉ đạo  trong đó bao gồm những điều dưới đây:
1. Mọi người đều được thông báo về các hậu quả đối với sức khoẻ, tính gây nghiện, và nguy cơ chết người do việc tiêu thụ thuốc lá và phơi nhiễm với khói thuốc lá gây ra, và các biện pháp lập pháp, hành pháp, hành chính có hiệu quả hoặc các biện pháp khác phải được tính đến tại cấp độ chính phủ phù hợp để bảo vệ tất cả mọi người khỏi bị phơi nhiễm với khói thuốc lá .
2. Cam kết chính trị mạnh mẽ là cần thiết để phát triển và hỗ trợ, ở cấp quốc gia và quốc tế, cho các biện pháp phối hợp liên ngành toàn diện và có sự điều phối có tính đến:
(a) Sự cần thiết tiến hành các biện pháp để bảo vệ tất cả mọi người khỏi việc phơi nhiễm đối với khói thuốc lá;.
(b) Sự cần thiết tiến hành các biện pháp để ngăn ngừa sự bắt đầu,  khuyến khích và ủng hộ việc cai nghiện và giảm việc tiêu thụ các sản phẩm thuốc lá dưới mọi hình thức;
(c)  Sự cần thiết tiến hành các biện pháp để khuyến khích sự tham gia của các cá nhân và cộng đồng người bản xứ trong việc phát triển, thực hiện và đánh giá các chương trình kiểm soát thuốc lá  phù hợp về mặt văn hoá và xã hội đối với nhu cầu và cách nhìn nhận của họ; và
(d) Sự cần thiết tiến hành các biện pháp đề cập đến các rủi ro liên quan đến vấn đề giới khi phát triển các chiến lược kiểm soát thuốc lá.
3. Hợp tác quốc tế, đặc biệt là việc chuyển giao công nghệ, kiến thức và trợ giúp tài chính và cung cấp kiến thức chuyên môn liên quan  để thiết lập và thực thi các chương trình kiểm soát thuốc lá có hiệu quả, có tính đến các yếu tố văn hóa, xã hội, kinh tế, chính trị và luật pháp là một phần quan trọng của Công ước .
4. Các biện pháp và đáp ứng liên ngành toàn diện nhằm giảm tiêu thụ mọi sản phẩm thuốc lá  ở cấp quốc gia,  khu vực và quốc tế  là rất thiết yếu nhằm ngăn chặn, theo đúng các nguyên tắc của y tế công cộng, tỷ lệ mắc các bệnh, sự tàn tật và chết sớm do việc sử dụng thuốc lá và phơi nhiễm với khói thuốc lá gây ra.
5. Các vấn đề liên quan đến trách nhiệm pháp lý được xác định bởi mỗi Bên trong phạm vi quyền tài phán của mình là một phần quan trọng của kiểm soát thuốc lá toàn diện.
6. Tầm quan trọng của sự  giúp đỡ về kỹ thuật và tài chính để giúp cho việc chuyển đổi kinh tế của người trồng cây thuốc lá và những người công nhân mà nguồn sống của họ  bị ảnh hưởng nghiêm trọng do hậu quả cảu các chương trình kiếm soát thuốc lá tại các  nước đang phát triển cũng như các nước có nền kinh tế đang chuyển đổi cần được thừa nhận và đề cập trong nội dung của các chiến lược phát triển quốc gia đảm bảo sự phát triển bền vững.
7. Sự tham gia của xã hội dân sự là cần thiết để đạt được các mục tiêu của Công ước  và các nghị định thư có liên quan.
Điều 5: Các nghĩa vụ chung
1. Mỗi Bên sẽ phát triển, thực hiện, định kỳ cập nhật và rà soát lại các chiến lược, kế hoạch và chương trình quốc gia liên ngành toàn diện về kiểm soát thuốc lá phù hợp với Công ước  và các nghị định thư mà Bên đó tham gia ký kết.
2. Nhằm mục đích này, mỗi Bên sẽ, theo khả năng của mình:
(a) Thiết lập hoặc củng cố và cung cấp tài chính cho một cơ chế điều phối  quốc gia hoặc các cơ quan đầu mối về kiểm soát thuốc lá; và
(b) Thông qua và thực thi các biện pháp lập pháp, hành pháp, hành chính và  các biện pháp khác và phối hợp với các Bên khác trong việc phát triển các chính sách phù hợp nhằm ngăn chặn và giảm tiêu thụ thuốc lá, nghiện nicotin và phơi nhiễm đối với khói thuốc lá
3. Khi hoạch định và thi hành các chính sách y tế công cộng liên quan đến kiểm soát thuốc lá, các Bên sẽ hành động để bảo vệ những chính sách này khỏi bị tác động bởi các  lợi ích về thương mại và các lợi ích có lợi khác của ngành công nghiệp thuốc lá, phù hợp với luật pháp quốc gia.
4. Các Bên sẽ phối hợp trong việc xây dựng các biện pháp, thủ tục và các hướng dẫn để thực hiện Công ước và các nghị định thư mà các Bên đã tham gia ký kết.
5. Các Bên sẽ phối hợp, ở mức phù hợp, với các tổ chức quốc tế và các tổ chức liên chính phủ khu vực và các cơ quan có thẩm quyền khác nhằm đạt các mục tiêu của Công ước và các nghị định thư mà Bên đó tham gia ký kết.
6. Các Bên sẽ, bằng những phương tiện và nguồn lực của mình, phối hợp để thu gom các nguồn tài chính để thực hiện Công ước một cách hiệu quả thông qua các cơ chế tài trợ song phương hoặc đa phương.
Phần III: Các biện pháp giảm cầu thuốc lá
Điều 6: Các biện pháp về giá và thuế để giảm cầu thuốc lá
1. Các Bên nhận thức rằng các biện pháp về giá và thuế là những biện pháp quan trọng và hữu hiệu để giảm tiêu thụ thuốc lá trong các tầng lớp dân cư, đặc biệt là thanh thiếu niên.
2. Để không tổn hại đến chủ quyền của các Bên trong việc xác định và hình thành  chính sách thuế của mình,  mỗi Bên cần cân nhắc đến các mục tiêu y tế quốc gia trong việc kiểm soát thuốc lá và thông qua hoặc duy trì, ở mức phù hợp, các biện pháp bao gồm:
(a) Thực hiện các chính sách thuế, và ở những nơi phù hợp, các chính sách về giá đối với các sản phẩm thuốc lá để đóng góp cho các mục tiêu y tế nhằm giảm tiêu thụ thuốc lá; và
(b) cấm hoặc hạn chế, ở mức thích hợp, việc bán và/hoặc nhập khẩu các sản phẩm thuốc lá miễn thuế hoặc không thuế bởi du khách quốc tế.
3. Các Bên sẽ cung cấp các mức thuế  đối với  các sản phẩm thuốc lá và xu hướng tiêu thụ thuốc lá trong các báo cáo định kỳ cho Hội nghị  các Bên theo Điều 21.
Điều 7: Các biện pháp phi giá để giảm cầu thuốc lá
Các Bên nhận thức rằng các biện pháp phi giá toàn diện là các biện pháp quan trọng và hữu hiệu để giảm tiêu thụ thuốc lá. Mỗi Bên sẽ thông qua và thực thi các biện pháp lập pháp, hành pháp, hành chính hữu hiệu hoặc  các biện pháp cần thiết khác để thực hiện các nghĩa vụ của mình theo Điều 8 đến Điều 13, và sẽ phối hợp với nhau, ở mức thích hợp,  một cách trực tiếp hoặc thông qua các cơ quan quốc tế có năng lực để thực hiện các biện pháp này. Hội nghị các Bên sẽ đề xuất các hướng dẫn phù hợp để thực hiện các điều khoản qui định trong các Điều này.
Điều 8: Bảo vệ  khỏi việc phơi nhiễm với khói thuốc lá
1. Các Bên nhận thức rõ rằng các bằng chứng khoa học đã chứng minh rõ ràng rằng việc phơi nhiễm với khói thuốc lá là nguyên nhân gây tử vong, bệnh tật và tàn tật.
2. Mỗi Bên sẽ thông qua và thi hành trong phạm vi các quyền tài phán quốc gia hiện hành được xác định bởi luật pháp quốc gia và tích cực thúc đẩy tại các cấp độ tài phán khác việc thông qua và thi hành các biện pháp, lập pháp, hành pháp, hành chính hữu hiệu   và/ hoặc các biện pháp khác nhằm bảo vệ khỏi việc phơi nhiễm với khói thuốc lá ở những nơi làm việc trong nhà, các phương tiện giao thông công cộng, những nơi công cộng trong nhà và ở mức thích hợp, tại những nơi công cộng khác. 
Điều 9: Qui định về hàm lượng của các sản phẩm thuốc lá
Hội nghị các Bên với sự tham vấn của các tổ chức quốc tế có thẩm quyền sẽ đề xuất các hướng dẫn cho việc thử và đo hàm lượng và khói toả ra từ các sản phẩm thuốc lá và để  qui định về hàm lượng và sự toả khói này. Mỗi Bên, ở những nơi được các nhà chức trách quốc gia có thẩm quyền chấp thuận, sẽ thông qua và thi hành các biện pháp lập pháp, hành pháp, hành chính hữu hiệu hoặc các biện  pháp khác đối với việc thử và đo lường và các quy định như vậy.
Điều 10: Qui định về việc tiết lộ các thông tin về sản phẩm thuốc lá
Mỗi Bên, tuỳ theo luật pháp quốc gia, sẽ thông qua và thi hành các biện pháp lập pháp, hành pháp và hành chính hữu hiệu hoặc các biện pháp khác yêu cầu các nhà sản xuất và nhập khẩu các sản phẩm thuốc lá phải tiết lộ cho các cơ quan có thẩm quyền của chính phủ các thông tin về hàm lượng và sự toả khói của sản phẩm thuốc lá. Ngoài ra mỗi Bên sẽ thông qua và thi hành các biện pháp có hiệu quả để thông tin cho công chúng biết về các thành phần độc hại có trong các sản phẩm thuốc lá và khói thuốc lá.
Điều 11: Đóng gói và gắn nhãn mác của các sản phẩm thuốc lá
1. Mỗi Bên, trong phạm vi 3 năm sau khi Công ước có hiệu lực đối với Bên đó, sẽ thông qua và thi hành, phù hợp với luật pháp quốc gia, các biện pháp có hiệu quả để đảm bảo rằng:
(a) Việc đóng gói và gắn nhãn mác của các sản phẩm thuốc lá không nhằm khuyến mãi một sản phẩm thuốc lá bằng các cách thức gian dối, sai lạc, lừa bịp hoặc  hoặc có thể tạo ra một ấn tượng sai lầm về tính chất, tác động đối với sức khoẻ, tác hại hoặc việc toả khói thuốc, bao gồm bất cứ thuật ngữ, vật mô tả, thương hiệu, từ ngữ bóng bẩy hoặc bất cứ dấu hiệu nào trực tiếp hoặc gián tiếp tạo ra ấn tượng sai về một sản phẩm thuốc lá nào đó ít có hại hơn các sản phẩm thuốc lá khác. Những thứ này  có thể bao gồm các thuật ngữ như: “ít hắc ín”,“nhẹ”, “siêu nhẹ”; và
(b) Mỗi bao thuốc lá và mỗi gói các sản phẩm thuốc lá và bất kỳ bao bì và nhãn mác bên ngoài nào của những sản phẩm như vậy đều phải có những lời cảnh báo về sức khoẻ mô tả tác hại của việc sử dụng thuốc lá và có thể bao gồm các thông điệp thích hợp khác.  Những lời cảnh báo và các thông điệp này:
i)         phải được sự phê chuẩn của các nhà chức trách quốc gia có thẩm quyền,
ii)        phải được sử dụng luân phiên,
iii)      phải đủ lớn, rõ ràng, dễ nhìn và dễ đọc.
iv)      phải chiếm 50% hoặc lớn hơn diện tích trưng bày chính nhưng không được nhỏ hơn 30% của các diện tích trưng bày chính của bao thuốc.
v)       có thể dưới hình thức của hoặc bao gồm các hình ảnh hoặc chữ tượng hình.
2. Mỗi bao thuốc lá và mỗi gói các sản phẩm thuốc lá và bất kỳ bao bì và nhãn mác bên ngoài của những sản phẩm như vậy, ngoài các lời cảnh báo cụ thể nêu trong điểm 1(b) của điều khoản này sẽ phải có những thông tin về thành phần các chất có trong thuốc lá và khói thuốc lá được xác định bởi các nhà chức trách quốc gia.
3. Các Bên sẽ yêu cầu rằng những lời cảnh báo và các thông tin bằng văn bản nêu rõ trong các đoạn 1(b) và đoạn 2 của Điều này sẽ xuất hiện trên mỗi bao thuốc và mỗi gói  sản phẩm thuốc lá và bất kỳ bao bì và nhãn mác bên ngoài của những sản phẩm như vậy bằng ngôn ngữ  hoặc các ngôn ngữ chính của quốc gia đó.
4. Vì các mục đích của Điều khoản này, thuật ngữ “đóng gói và nhãn mác bên ngoài” liên quan đến các sản phẩm thuốc lá được áp dụng cho bất kỳ việc đóng gói và nhãn mác nào dùng trong bán lẻ sản phẩm.
Điều 12: Giáo dục, truyền thông, đào tạo và  nhận thức của công chúng
Mỗi Bên sẽ tăng cường và củng cố nhận thức của công chúng về các vấn đề liên quan đến kiểm soát thuốc lá bằng cách sử dụng tất cả các phương tiện truyền thông sẵn có, ở mức thích hợp. Để đạt được mục đích này,  mỗi Bên sẽ thông qua và thi hành các biện pháp lập pháp, hành pháp, hành chính hữu hiệu hoặc các biện pháp khác nhằm thúc đẩy:
(a)        sự tiếp cận rộng rãi với các chương trình giáo dục và nâng cao nhận thức của công chúng hiệu quả và toàn diện về  các nguy cơ về sức khoẻ bao gồm những đặc tính gây nghiện của việc tiêu thụ thuốc lá và phơi nhiễm với khói thuốc lá;
(b)       nhận thức của công chúng về các nguy cơ đối với sức khoẻ của việc tiêu thụ thuốc lá và phơi nhiễm với khói thuốc lá và về những lợi ích của việc cai nghiện thuốc lá và lối sống không thuốc lá như được quy định trong điều 14.2;
(c) sự tiếp cận của công chúng, phù hợp với luật pháp quốc gia,  với các thông tin rộng rãi về ngành công nghiệp thuốc lá phù hợp với mục tiêu của Công ước này;
(d)  các chương trình đào tạo hiệu quả và phù hợp hoặc các chương trình tạo sự nhậy cảm hoặc nâng cao nhận thức về kiểm soát thuốc lá cho đối tượng là cán bộ y tế, nhân viên cộng đồng, nhân viên làm công tác xã hội, những người làm công tác truyền thông, giáo viên, các nhà hoạch định chính sách, các nhà quản lý và những người có liên quan khác.
(e)   nhận thức và sự tham gia của công chúng và các tổ chức tư nhân và các tổ chức phi chính phủ không gắn kết với các công ty thuốc lá trong việc phát triển và thực hiện các chiến lược và các chương trình liên ngành về kiểm soát thuốc lá.
(f)   nhận thức của công chúng về và sự tiếp cận với các thông tin về các hậu quả có hại đối với sức khoẻ, kinh tế và môi trường của việc sản xuất và tiêu thụ thuốc lá.
Điều 13: Quảng cáo, khuyến mãi  và tài  trợ thuốc lá
1. Các Bên nhận thức rằng cấm toàn diện đối với quảng cáo, khuyến mãi và tài trợ sẽ làm giảm tiêu thụ các sản phẩm thuốc lá.
2. Mỗi Bên, tuỳ theo hiến pháp và các quy định của hiến pháp của nước mình, sẽ đảm nhận việc cấm toàn diện mọi quảng cáo, khuyến mãi và tài trợ thuốc lá. Điều này sẽ bao gồm, tuỳ thuộc vào môi trường pháp lý và các phương tiện kỹ thuật sẵn có của Bên đó, các hạn chế hoặc một sự cấm toàn diện việc quảng cáo, khuyến mãi và tài trợ xuyên biên giới xuất phát từ lãnh thổ của mình. Liên quan đến vấn đề này, trong vòng 5 năm sau khi Công ước này có hiệu lực đối với Bên đó, mỗi Bên sẽ đảm nhận  tiến hành các hoạt động lập pháp, hành pháp và hành chính phù hợp và/hoặc báo cáo kết quả theo quy định tại Điều 21.
3. Một Bên vì hiến pháp và các nguyên tắc hiến pháp của họ không cho phép thực hiện việc cấm toàn diện việc quảng cáo sẽ áp dụng việc hạn chế tất cả các hoạt động quảng cáo, khuyến mãi và tài trợ thuốc lá. Việc này sẽ bao gồm, tuỳ thuộc môi trường luật pháp và các phương tiện kỹ thuật sẵn có của Bên đó, hạn chế hoặc cấm toàn diện việc quảng cáo, khuyến mãi và tài trợ thuốc lá với hiệu quả xuyên biên giới xuất phát từ lãnh thổ nước mình. Liên quan đến việc này, mỗi Bên sẽ đảm nhận tiến hành các hoạt động lập pháp, hành pháp và hành chính phù hợp và báo cáo kết quả theo quy định tại Điều 21.
4. Mỗi Bên, ở mức tối thiểu, và tuỳ theo hiến pháp hoặc các nguyên tắc hiến pháp của nước mình, sẽ:      
(a) cấm mọi hình thức quảng cáo, khuyến mãi và tài trợ thuốc lá nhằm khuyến mãi một sản phẩm thuốc lá bằng bất kỳ phương thức gì gian dối, sai lệch, lừa bịp hoặc hoặc dễ tạo ra một ấn tượng sai lầm về tính chất, tác động đối với sức khoẻ, các tác hại hoặc sự toả khói thuốc;
(b) yêu  cầu rằng những lời cảnh báo về sức khoẻ hoặc những lời cảnh báo  hoặc thông điệp phù hợp khác luôn đi kèm mọi quảng cáo và, ở mức thích hợp, với  việc khuyến mãi và tài trợ;
(c) hạn chế việc sử dụng khuyến khích vật chất trực tiếp hoặc gián tiếp nhằm khuyến khích dân chúng mua các sản phẩm thuốc lá;
(d)  yêu cầu, nếu chưa cấm hoàn toàn việc quảng cáo, phải tiết lộ với các nhà chức trách chính phủ về các chi phí mà ngành công nghiệp thuốc lá dùng để quảng cáo, khuyến mãi và tài trợ còn chưa bị cấm. Các nhà chức trách này, tuỳ theo quy định của luật pháp quốc gia, có thể công bố con số này cho công chúng biết và tại Hội nghị các Bên theo quy định của Điều 21;
(e) đảm nhận thực hiện trong khoảng thời gian 5 năm việc cấm toàn diện hoặc, trong trường hợp của Bên chưa thực hiện được việc cấm toàn diện vì lý do hiến pháp hoặc các nguyên tắc của hiến pháp thì thực hiện việc hạn chế quảng cáo, khuyến mãi và tài trợ thuốc lá trên đài phát thanh, vô tuyến truyền hình, các phương tiện truyền thông bằng in ấn và ở mức phù hợp, trên các phương tiện truyền thông khác như internet; và
(f)  cấm, hoặc trong trường hợp của Bên chưa thực hiện được việc cấm toàn diện vì lý do hiến pháp hoặc các nguyên tắc của hiến pháp thì thực hiện việc hạn chế tài trợ của các công ty thuốc lá cho các sự kiện, hoạt động quốc tế  hoặc người  tham gia vào những sự kiện, hoạt động này.
5. Các Bên được khuyến khích thực hiện các biện pháp ngoài các nghĩa vụ nêu trong đoạn 4.
6. Các Bên sẽ hợp tác trong việc phát triển các kỹ thuật và các biện pháp cần thiết  khác để tạo điều kiện loại bỏ việc quảng cáo xuyên biên giới.
7. Các Bên đã cấm một số hình thức quảng cáo, khuyến mãi và tài trợ, có chủ quyền cấm các hình thức quảng cáo, khuyến mãi và tài trợ xuyên biên giới xâm nhập vào lãnh thổ  nước mình và có quyền áp đặt các hình thức trừng phạt tương đương như các trường hợp vi phạm việc quảng cáo, khuyến mãi và tài trợ xuất phát từ bên trong lãnh thổ theo quy định của luật pháp quốc gia. Đoạn này không phê chuẩn hoặc chấp thuận bất kỳ hình thức trừng phạt đặc biệt nào.
8. Các Bên sẽ xem xét việc soạn thảo một nghị định thư nhằm đưa ra các biện pháp phù hợp để yêu cầu sự phối hợp quốc tế nhằm cấm toàn diện việc quảng cáo, khuyến mãi và tài trợ xuyên biên giới.
Điều 14: Những biện pháp giảm cầu liên quan đến cai nghiện thuốc lá.
1. Mỗi Bên sẽ phát triển và phổ biến các hướng dẫn phù hợp, toàn diện và mang tính lồng ghép dựa trên các chứng cứ khoa học và các thực hành tốt, có tính đến các ưu tiên và hoàn cảnh quốc gia, và tiến hành các biện pháp hiệu quả để đẩy mạnh việc cai nghiện thuốc lá và điều trị đầy đủ đối với việc phụ thuộc vào thuốc lá.
2. Nhằm mục đích này mỗi Bên sẽ nỗ lực để:
(a) thiết kế và thực hiện các chương trình có hiệu quả nhằm đẩy mạnh việc cai nghiện thuốc lá tại các địa điểm như các cơ sở giáo dục, y tế, nơi làm việc và nơi diễn ra các hoạt động thể thao;
(b) bao gồm việc chẩn đoán và điều trị sự phụ thuộc vào thuốc lá và các dịch vụ tư vấn về cai nghiện thuốc lá trong các chương trình, kế hoạch và chiến lược về  y tế và giáo dục quốc gia với sự tham gia của các nhân viên y tế, nhân viên cộng đồng và các nhân viên xã hội ở mức phù hợp;
(c) thiết lập dịch vụ chẩn đoán, tư vấn, phòng ngừa và điều trị việc phụ thuộc vào thuốc lá tại các cơ sở y tế và các trung tâm phục hồi chức;
(d) phối hợp với các Bên khác để tạo điều kiện về có khả năng tiếp cận và khả năng chi trả đối việc điều trị cai nghiện thuốc lá bao gồm các dược phẩm theo quy định tại Điều 22. Các sản phẩm như vậy và thành phần của chúng có thể gồm thuốc, các sản phẩm dùng để sử dụng thuốc và các chất dùng trong chẩn đoán khi thích hợp.
Phần IV: Các biện pháp liên quan đến giảm cung cấp thuốc lá.
Điều 15: Buôn bán bất hợp pháp các sản phẩm thuốc lá[2]
1. Các Bên công nhận rằng việc loại bỏ mọi hình thức buôn bán bất hợp pháp các sản phẩm thuốc lá bao gồm buôn lậu, sản xuất bất hợp pháp và làm giả, và việc phát triển và thi hành các luật quốc gia liên quan, ngoài các hiệp định của tiểu khu vực, khu vực và   toàn cầu là các thành tố thiết yếu của việc kiểm soát thuốc lá.
2. Mỗi Bên sẽ thông qua và thi hành các biện pháp lập pháp, hành pháp, hành chính  và các biện pháp khác có hiệu quả để đảm bảo rằng  tất cả các bao thuốc và các gói của các sản phẩm thuốc lá và bất kỳ bao gói bên ngoài nào của các sản phẩm như vậy phải được đánh dấu để giúp cho các Bên xác định được nguồn gốc của các sản phẩm thuốc lá,  và phù hợp với luật pháp quốc gia và các hiệp định đa phương hoặc song phương phù hợp, giúp các Bên trong việc xác định điểm chuyển hướng và theo rõi, thu thập tài liệu và kiểm soát sự di chuyển của các sản phẩm thuốc lá và tính hợp pháp của chúng. Ngoài ra, mỗi bên sẽ:
(a) yêu cầu rằng mỗi bao thuốc và mỗi gói các sản phẩm thuốc lá để bán buôn và bán lẻ bán ở thị trường trong nước mang dòng chữ: “Chỉ được phép bán tại (tên của nước, tiểu quốc gia, khu vực hoặc đơn vị  liên bang)” hoặc mang bất kỳ dấu hiệu gì có hiệu quả chỉ rõ điểm đến cuối cùng hoặc những dấu hiệu giúp cho nhà chức trách xác định sản phẩm thuốc lá đó có hợp pháp để cho phép bán tại thị trường trong nước hay không; và
(b) xem xét, ở mức phù hợp, việc phát triển một phương thức thực tiễn để theo dõi đường đi và lần theo dấu vết để đảm bảo an toàn hơn nữa cho hệ thống phân phối và giúp cho việc điều tra buôn lậu bất hợp pháp các sản phẩm thuốc lá.
3. Mỗi Bên sẽ yêu cầu rằng các thông tin về đóng gói hoặc các ký hiệu đánh dấu nêu trong đoạn 2 của Điều khoản này sẽ được trình bày dưới dạng đọc được và/hoặc được thể hiện bằng ngôn ngữ  hoặc các ngôn ngữ chính.
4. Để loại bỏ việc buôn bán các sản phẩm thuốc lá bất hợp pháp, mỗi Bên sẽ:
(a) theo dõi và thu thập các số liệu về việc buôn bán các sản phẩm thuốc lá qua biên giới, bao gồm cả buôn bán bất hợp pháp, và trao đổi thông tin giữa các cơ quan hải quan, cơ quan thuế và các cơ quan có thẩm quyền khác, tuỳ theo sự thích hợp, và phù hợp với luật pháp quốc gia và các hiệp định đa phương hoặc song phương phù hợp có thể áp dụng;
(b) ban hành hoặc tăng cường các quy định pháp luật với các hình phạt phù hợp và các biện pháp để khắc phục việc buôn bán bất hợp pháp các sản phẩm thuốc lá bao gồm cả thuốc lá giả và thuốc lá nhái nhãn mác;
(c) tiến hành các bước thích hợp để đảm bảo rằng tất cả các phương tiện sản xuất, thuốc lá giả, thuốc lá nhái nhãn mác và các sản phẩm thuốc lá bị tịch thu  được tiêu huỷ,  sử dụng các phương pháp tiêu huỷ không ảnh hưởng tới môi trường ở những nơi có thể, hoặc huỷ bỏ theo đúng luật pháp trong nước;
(d) thông qua và thực hiện các biện pháp để theo rõi, thu thập tài liệu và kiểm soát việc lưu kho, phân phối các sản phẩm thuốc lá bị giữ lại hoặc di chuyển do việc tạm đình chỉ thuế hoặc thuế hàng hoá trong phạm vi quyền tài phán của Bên đó; và
(e) thông qua các biện pháp tuỳ theo sự thích hợp tạo điều kiện cho việc tịch thu các khoản tiền thu được từ việc buôn bán bất hợp pháp các sản phẩm thuốc lá;
5. Các thông tin thu thập được theo các tiểu đoạn 4(a) và 4(d) của Điều khoản này sẽ, tuỳ theo sự thích hợp, được cung cấp trong mẫu tập hợp bởi các Bên trong các báo cáo định kỳ gửi cho Hội nghị các Bên theo Điều 21.
6. Các Bên, tuỳ theo sự thích hợp và theo quy định của luật pháp quốc gia sẽ thúc đẩy sự hợp tác giữa các tổ chức trong nước cũng như các tổ chức khu vực, quốc tế và phi chính phủ phù hợp trong việc điều tra, truy tố và tố tụng nhằm loại bỏ việc buôn bán bất hợp pháp các sản phẩm thuốc lá. Đặc biệt nhấn mạnh tới sự hợp tác tại cấp độ khu vực, tiểu khu vực trong cuộc chiến chống lại việc buôn bán bất hợp pháp các sản phẩm thuốc lá.
7. Mỗi Bên sẽ nỗ lực thông qua và thi hành thêm các biện pháp bao gồm việc cấp giấy phép ở những nơi thích hợp để kiểm soát hoặc điều chỉnh việc sản xuất và phân phối các sản phẩm thuốc lá  nhằm ngăn chặn việc buôn bán bất hợp pháp.
Điều 16: Bán thuốc lá cho và bởi trẻ vị thành niên
1. Mỗi Bên sẽ thông qua và thi hành các biện pháp lập pháp, hành pháp, hành chính và các biện pháp khác có hiệu quả tại cấp chính phủ phù hợp để cấm việc bán các sản phẩm thuốc lá cho những người dưới tuổi quy định bởi luật trong nước, luật quốc gia hoặc người dưới 18 tuổi. Những biện pháp này có thể bao gồm:
(a) yêu cầu rằng mọi người bán các sản phẩm thuốc lá đặt một bảng hiệu rõ ràng và nổi bật tại các điểm bán của họ về việc cấm bán thuốc lá cho trẻ vị thành niên, và trong trường hợp nghi ngờ yêu cầu mỗi người mua thuốc lá cung cấp bằng chứng phù hợp để chứng minh họ đã đến tuổi hợp pháp để mua thuốc lá.
(b) cấm bán các sản phẩm thuốc lá bằng bất kỳ phương thức nào mà người mua có thể trực tiếp tiếp cận với các sản phẩm này như các giá bầy hàng trong cửa hàng;
(c)  cấm việc sản xuất và bán các loại kẹo, đồ ăn nhẹ, đồ chơi và các vật khác mang hình dáng của các sản phẩm thuốc lá mà những vật này hấp dẫn đối với trẻ vị thành niên; và
(d) đảm bảo rằng trong phạm vi quyền tài phán của mình các máy tự động bán thuốc lá không tiếp cận được đối với trẻ vị thành niên và không khuyến khích việc bán thuốc lá cho trẻ vị thành niên.
2. Mỗi Bên sẽ cấm hoặc khuyến khích việc cấm phân phát các sản phẩm thuốc lá không mất tiền cho công chúng đặc biệt là cho trẻ vị thành niên..
3. Mỗi Bên sẽ nỗ lực ngăn cấm việc bán thuốc lá lẻ hoặc những bao thuốc lá nhỏ mà điều này sẽ làm tăng khả năng chi trả đối với các sản phẩm này ở trẻ vị thành niên.
4. Các Bên công nhận rằng để tăng tính hiệu quả, các biện pháp ngăn chặn việc bán thuốc lá cho trẻ vị thành niên, ở những nơi phù hợp, phải được thực hiện cùng với các điều khoản khác trong Công ước này.
5. Khi ký,  phê chuẩn, chấp thuận hoặc đồng ý với Công ước hoặc vào bất kỳ thời điểm nào sau đó, một Bên có thể, bằng một văn bản tuyên bố mang tính ràng buộc, nêu rõ những cam kết của mình cấm việc đưa vào sử dụng các máy bán thuốc lá trong phạm vi quyền tài phán của mình, hoặc, ở mức phù hợp, cấm hoàn toàn các máy bán thuốc lá. Tuyên bố được đưa ra theo Điều khoản này sẽ được người giữ văn kiện truyền đạt tới tất cả các Bên tham gia Công ước.
6. Mỗi  Bên sẽ thông qua và thực hiện các biện pháp lập pháp, hành pháp, hành chính và các biện pháp hữu hiệu khác, bao gồm cả việc xử phạt những người bán và phân phối thuốc lá để đảm bảo việc tuân thủ các nghĩa vụ quy định tại đoạn 1-5 của Điều khoản này.
7. Mỗi Bên cần, ở mức phù hợp, thông qua và thực hiện các biện pháp lập pháp, hành pháp, hành chính và các biện pháp hữu hiệu khác để cấm việc bán thuốc lá cho những người chưa đến tuổi theo quy định của luật pháp địa phương, quốc gia hoặc người dưới 18 tuổi.
Điều 17: Cung cấp sự hỗ trợ cho các hoạt động  thay thế khả thi về kinh tế.
Các Bên sẽ, bằng cách phối hợp với nhau và với các tổ chức quốc tế và các tổ chức liên  chính phủ khu vực có thẩm quyền,  thúc đẩy, ở mức phù hợp, những lựa chọn khả thi về kinh tế cho người trồng thuốc lá, công nhân sản xuất thuốc lá và có thể cả những cá nhân bán thuốc lá.
Phần V: Bảo vệ môi trường
Điều 18:  Bảo vệ môi trường và sức khoẻ của mọi người
Trong việc thực hiện các nghĩa vụ trong Công ước này, các Bên đồng ý phải quan tâm thích đáng tới việc bảo vệ môi trường và bảo vệ sức khoẻ của những người liên quan đến môi trường liên quan đến lĩnh vực trồng và sản xuất thuốc lá trong phạm vi lãnh thổ của mình.
Phần VI: Các Vấn đề liên quan đến trách nhiệm pháp lý
Điều 19: Trách nhiệm pháp lý
1. Vì mục đích kiểm soát thuốc lá, các Bên sẽ xem xét việc thực hiện các hành động  pháp lý hoặc tăng cường các luật hiện có của mình, ở những nơi cần thiết, để giải quyết trách nhiệm pháp lý dân sự và hình sự, bao gồm bồi thường thiệt hại nếu phù hợp.
2. Các Bên sẽ hợp tác với nhau trong việc trao đổi thông tin thông qua Hội nghị Các Bên theo Điều 21 bao gồm:
(a) thông tin về các tác động về sức khoẻ của việc tiêu thụ các sản phẩm thuốc lá và phơi nhiễm với khói thuốc lá theo Điều 20.3 (a); và
(b) thông tin về luật pháp, các quy định đang có hiệu lực cũng như thông tin về khoa học luật pháp phù hợp.
3. Các Bên sẽ, ở mức phù hợp và theo thoả thuận, trong phạm vi luật pháp, chính sách và thực hành luật pháp của quốc gia và những hiệp ước đang áp dụng,  sẽ giúp đỡ lẫn nhau trong các thủ tục tố tụng liên quan tới trách nhiệm pháp lý dân sự và hình sự nhất quán với công ước này.
4. Công ước sẽ không làm ảnh hưởng hoặc hạn chế bất kỳ quyền tiếp cận nào của các Bên tới các toà án của nhau mà ở đó tồn tại những quyền như vậy.
5. Hội nghị các Bên có thể xem xét, nếu có thể, tại một thời điểm sớm, có tính đến những công việc đang được tiến hành tại các diễn đàn quốc tế phù hợp, nếu có thể, những vấn đề liên quan đến trách nhiệm pháp lý bao gồm các cách tiếp cận quốc tế phù hợp đối với các vấn đề này và các biện pháp phù hợp để hỗ trợ, theo yêu cầu, các Bên trong các hoạt động luật pháp và và các hoạt động khác theo Điều khoản này.
Phần VII: Hợp tác khoa học và kỹ thuật và truyền thông các thông tin
Điều 20: Nghiên cứu, giám sát, và trao đổi thông tin.
1. Các Bên đảm nhận phát triển và tăng cường các nghiên cứu quốc gia và điều phối  các chương trình nghiên cứu khu vực và quốc tế trong lĩnh vực kiểm soát thuốc lá. Để đạt được mục đích này,  mỗi Bên sẽ :
(a) khởi xướng và hợp tác, trực tiếp hoặc thông qua các tổ chức quốc tế và khu vực có thẩm quyền và các tổ chức khác, tiến hành các nghiên cứu và đánh giá khoa học; và bằng việc làm như vậy sẽ đẩy mạnh và khuyến khích các nghiên cứu đề cập đến các yếu tố xác định và hậu quả của việc tiêu thụ thuốc lá và phơi nhiễm với khói thuốc lá cũng như các nghiên cứu để xác định các loại cây trồng thay thế thuốc lá; và
(b) tăng cường và củng cố, với sự trợ giúp của các tổ chức quốc tế, khu vực và liên chính phủ có thẩm quyền và các tổ chức khác việc đào tạo và hỗ trợ cho tất cả những người tham gia trong công tác kiểm soát thuốc lá bao gồm nghiên cứu, thực hiện và đánh giá.
2. Các Bên sẽ thiết lập, ở mức phù hợp, các chương trình giám sát quốc gia, khu vực và toàn cầu về phạm vi ảnh hưởng, mô hình,  các yếu tố xác định và hậu quả của việc tiêu thụ thuốc lá và phơi nhiễm với khói thuốc lá. Để làm được việc này, các Bên nên lồng ghép các chương trình giám sát thuốc lá vào các chương trình giám sát sức khoẻ quốc gia, khu vực và toàn cầu để các số liệu này có thể so sánh và phân tích được tại cấp độ khu  vực và toàn cầu, ở mức phù hợp.
3. Các Bên công nhận tầm quan trọng của sự hỗ trợ về tài chính và kỹ thuật từ các tổ chức quốc tế và các tổ chức liên chính phủ khu vực và các tổ chức khác. Mỗi Bên sẽ nỗ lực để:
(a) thiết lập theo tiến độ một hệ thống giám sát dịch tễ quốc gia về các chỉ số tiêu thụ thuốc lá,  các yếu tố xã hội, kinh tế có liên quan và các chỉ số về sức khoẻ.
(b) hợp tác với các tổ chức quốc tế và các tổ chức liên chính phủ khu vực và các tổ chức khác,  bao gồm cả các cơ quan chính phủ và phi chính phủ trong việc giám sát thuốc lá khu vực và toàn cầu và trao đổi thông tin về các chỉ số nêu cụ thể trong đoạn 3(a) của Điều khoản này.
(c) hợp tác với Tổ chức Y tế Thế giới trong việc phát triển các hướng dẫn  hoặc phương thức chung để xác định việc thu thập,  phân tích và phổ biến số liệu giám sát liên quan đến thuốc lá.
4. Các Bên, tuỳ theo luật pháp quốc gia, sẽ thúc đẩy và tạo điều kiện việc trao đổi các thông tin sẵn có đã được công bố về khoa học, kỹ thuật, kinh tế xã hội, thương mại và luật pháp cũng như các thông tin liên quan đến cách thức làm ăn của ngành công nghiệp thuốc lá và việc trồng thuốc lá mà các thông tin này phù hợp với Công ước này và bằng cách làm như vậy sẽ xem xét và đề cập đến những nhu cầu đặc biệt của các nước đang phát triển và các nước có nền kinh tế đang trong thời kỳ quá độ. Mỗi Bên sẽ nỗ lực để:
(a)  thiết lập theo tiến độ và duy trì một cơ sở dữ liệu được cập nhật về luật pháp và các quy định về kiểm soát thuốc lá và ở mức phù hợp, các thông tin về việc thực thi các luật này cũng như các thông tin về khoa học luật pháp thích hợp và hợp tác trong việc xây dựng các chương trình kiểm soát thuốc lá khu vực và toàn cầu.
(b) thiết lập theo tiến độ và duy trì một cơ sở dữ liệu được cập nhật từ các  chương trình giám sát quốc gia theo đoạn 3(a) của Điều khoản này; và
(c) hợp tác với các tổ chức quốc tế có thẩm quyền thiết lập theo tiến độ và duy trì một hệ thống toàn cầu để thường xuyên thu thập và phổ biến thông tin về sản xuất thuốc lá, các hoạt động sản xuất của ngành công nghiệp thuốc lá mà có ảnh hưởng đến Công ước này hoặc các hoạt động kiểm soát thuốc lá quốc gia.
5. Các Bên nên hợp tác với các tổ chức liên chính phủ quốc tế và khu vực và các cơ quan tài chính và phát triển mà họ là thành viên để thúc đẩy và khuyến khích việc cung cấp các nguồn tài chính và kỹ thuật cho Ban Thư ký để giúp đỡ cho các Bên nước đang phát triển và các Bên nước có nền kinh tế trong thời kỳ quá độ để đáp ứng các cam kết của họ về nghiên cứu, giám sát và trao đổi thông tin.
Điều 21: Báo cáo và trao đổi thông tin
1. Mỗi Bên sẽ  đệ trình lên Hội nghị các Bên, thông qua Ban thư ký, các báo cáo định kỳ về việc thực hiện công ước này, bao gồm các nội dung sau:
(a) các thông tin về các biện pháp mang tính luật pháp, hành pháp, hành chính và các biện pháp khác đã áp dụng để thực hiện Công ước này.
(b) những thông tin, ở mức phù hợp, về  bất kỳ  trở ngại hoặc rào cản nào gặp phải trong quá trình thực hiện Công ước và các  biện pháp áp dụng để vượt qua những  rào cản này.
(c) các thông tin, ở mức phù hợp, về sự trợ giúp tài chính và kỹ thuật được cung cấp hoặc nhận được cho các hoạt động kiểm soát thuốc lá.
(d) các thông tin về giám sát và nghiên cứu được  nêu cụ thể tại Điều  20;
(e) các thông tin được nêu cụ thể  tại các Điều  6.3,  13.2, 13.3, 13.4 (d), 15.5 và 19.2;
2. Định kỳ và hình thức của các báo cáo này của các Bên sẽ do Hội nghị các Bên xác định.  Mỗi Bên sẽ  làm bản báo cáo đầu tiên trong vòng 2 năm đầu kể từ khi Công ước bắt đầu có hiệu lực  đối với Bên đó.
3. Hội nghị các Bên theo quy định tại  các Điều  22 và 26 sẽ  xem xét các thu xếp  nhằm giúp các Bên là nước đang phát triển và các Bên có nền kinh tế quá độ, theo yêu cầu,   nhằm hoàn thành các nghĩa vụ của họ theo Điều này.
4. Thông báo và trao đổi thông tin  theo Công ước sẽ tuân thủ luật pháp quốc gia về bảo mật và bảo vệ sự riêng tư. Các Bên sẽ bảo vệ, theo thoả thuận chung,  bất kỳ thông tin  mật nào được trao đổi.
Điều  22: Hợp tác trong lĩnh vực khoa học, kỹ thuật và luật pháp  và cung cấp chuyên  môn
1. Các Bên sẽ hợp tác trực tiếp hoặc thông qua các tổ chức quốc tế có thẩm quyền để tăng cường năng lực nhằm thực hiện các nghĩa vụ phát sinh từ Công ước này, có tính đến nhu cầu của các Bên là các nước đang phát triển và các Bên là nước có nền kinh tế quá độ.  Việc hợp tác như vậy sẽ  tăng cường việc chuyển giao chuyên  môn về luật pháp,  khoa học kỹ thuật và  công nghệ, theo thoả thuận chung, để xây dựng và tăng cường các chiến lược kiểm soát thuốc lá, các kế hoạch và chương trình  nhằm các mục đích  bao gồm:
(a) thúc đẩy sự phát triển, chuyển giao và nắm bắt công nghệ,  kiến thức, kỹ năng, năng lực và  chuyên môn liên quan đến  phòng chống thuốc lá;
(b) cung cấp chuyên môn về khoa học, kỹ thuật, luật pháp và các lĩnh vực khác để xây dựng và  tăng cường các chiến lược,  kế hoạch và chương trình phòng chống thuốc lá quốc gia nhằm thực hiện Công ước thông qua các việc  bao gồm các việc sau:
(i) trợ giúp, theo yêu cầu, việc phát triển cơ sở luật pháp cũng như các  chương trình kỹ thuật, bao gồm cơ sở pháp lý và chương trình ngăn ngừa  việc bắt đầu hút thuốc lá, khuyến khích  ngừng hút thuốc lá và  bảo vệ khỏi sự phơi nhiễm với khói thuốc lá.
(ii)  trợ giúp,   ở mức thích hợp, công nhân sản xuất thuốc lá  trong việc phát triển các kế sinh nhai thay thế khả thi về luật pháp và kinh tế theo cách khả thi về  kinh tế.
(iii) hỗ trợ,  ở mức thích hợp,  người trồng thuốc lá  trong việc chuyển đổi  sản xuất nông nghiệp sang các cây trồng thay thế  theo  cách khả thi về kinh tế.
(c)  hỗ trợ các chương trình đào tạo hoặc gây nhậy cảm cho các đối tượng phù hợp theo Điều 12.
(d) Cung cấp, ở mức thích hợp, các nguyên liệu, trang thiết  bị và vật tư cần thiết cũng như   các hỗ trợ hậu cần  cho các chiến lược, kế hoạch và chương trình kiểm soát thuốc lá;
(e)  xác định các phương pháp  kiểm soát thuốc lá, kể cả việc điều trị toàn diện đối với nghiện nicotine; và
(f)  đẩy mạnh, ở mức phù hợp, các nghiên cứu nhằm tăng cường khả năng có thể chi trả được cho việc điều trị toàn diện đối với nghiện thuốc lá.
2. Hội nghị các Bên sẽ  đẩy mạnh và tạo điều kiện  cho việc chuyển giao chuyên môn về khoa học, kỹ  thuật và luật pháp với sự hỗ trợ  tài chính được bảo đảm tại  Điều  26.
Phần VIII.  các thu xếp về  thể chế và nguồn tài chính
Điều 23: Hội nghị các Bên
1. Một Hội nghị các Bên được tổ chức theo văn bản này.  Phiên họp đầu tiên của Hội nghị này sẽ do Tổ chức Y tế thế giới triệu tập không quá 1 năm sau khi Công ước này  có hiệu lực. Trong  phiên họp đầu tiên, Hội nghị sẽ xác định  thời gian và địa điểm cho các  phiên họp thường kỳ tiếp theo.
2. Các phiên họp bất thường của Hội nghị các Bên sẽ được tổ chức vào  các thời điểm khác  mà Hội nghị thấy cần thiết , hoặc theo yêu cầu bằng văn bản của  bất kỳ Bên nào  với điều kiện là, trong vòng 6 tháng sau khi yêu cầu đó được Ban thư ký của Công ước truyền đạt tới các Bên,  yêu cầu này được 1/3 các Bên ủng hộ.
3. Hội nghị các Bên sẽ thông qua, bằng sự nhất trí, các Quy định về Thủ tục tại phiên họp đầu tiên.
4. Hội nghị các Bên, bằng sự nhất trí, sẽ thông qua các quy định về tài chính cho chính mình cũng như cũng như  chi phối việc tài  trợ cho bất kỳ cơ quan chi nhánh nào mà Hội nghị có thể thành lập cũng như các quy định tài chính chi phối hoạt động của Ban thư ký. Tại mỗi  phiên họp,  Hội nghị sẽ  thông qua một ngân sách cho giai đoạn tài chính  kéo dài tới  phiên họp lần sau.
5. Hội nghị các Bên sẽ xem xét thường xuyên việc thực hiện Công ước này và tiến hành các quyết định cần thiết để  thúc đẩy việc thực hiện công ước một cách hiệu quả và có thể thông qua các nghị định thư, các bổ xung và sửa đổi cho Công ước theo các Điều 28, 29, và 33.  Nhằm mục đích này, Hội nghị sẽ:
(a)  đẩy mạnh và tạo điều kiện thuận lợi cho việc trao đổi thông tin  theo các  Điều 20 và 21;
(b) đẩy mạnh và hướng dẫn việc phát triển và hoàn thiện theo định kỳ các phương pháp có thể so sánh được cho việc nghiên cứu và thu thập số liệu bổ sung cho các điều khoản quy định tại Điều 20, liên quan đến thực hiện Công ước;
(c) đẩy mạnh, ở mức thích hợp,  việc phát triển, thực hiện và đánh giá các chiến lược, kế hoạch và chương trình cũng như các chính sách, luật pháp, và các biện pháp khác;
(d) xem xét các thông báo  mà các Bên đệ trình  theo Điều 21 và  thông qua cá  báo cáo định kỳ về việc thực hiện công ước;
(e) đẩy mạnh và tạo điều kiện cho việc  huy động các nguồn tài chính để thực hiện Công ước  theo  Điều 26;
(f)  thành lập các cơ quan  chi nhánh cần thiết  để đạt được mục tiêu của Công ước;
(g) yêu cầu, ở mức phù hợp, các dịch vụ,  sự hợp tác của và thông tin được cung cấp bởi, các tổ chức và cơ quan có thẩm quyền và liên quan thuộc hệ thống Liên hợp quốc và các tổ chức quốc tế, liên chính phủ khu vực và các tổ chức và cơ quan phi chính phủ  như những phương tiện nhằm để thúc đẩy việc thực hiện Công ước; và
(h) xem xét các  hành động khác, ở mức  thích hợp, để đạt được mục tiêu của Công ước dưới ánh sáng của các kinh nghiệm thu lượm được trong việc thực hiện Công ước.
6. Hội nghị các Bên sẽ xây dựng các tiêu chí cho  việc tham  gia của các quan sát viên  trong các buổi họp của Hội nghị.
Điều  2: Ban thư ký
1. Hội nghị các Bên sẽ chỉ định ban thư ký thường trực và tiến hành các thu xếp để ban này thực hiện các chức năng của mình. Hội nghị các Bên sẽ cố gắng thực hiện điều này  tại cuộc họp đầu tiên.
2. Các chức năng của ban thư ký  phục vụ Công ước này sẽ  do Tổ chức Y Tế thế giới  thực hiện cho đến khi ban thư ký thường trực được chỉ định và thành lập.
3. Các chức năng của ban thư ký là:
(a) thu xếp  các phiên họp của Hội nghị các Bên và các tổ chức trợ giúp, cung cấp cho họ các dịch vụ theo yêu cầu;
(b) chuyển các báo cáo nhận được theo đúng Công ước;
(c) cung cấp hỗ trợ cho các Bên theo yêu cầu, đặc biệt cho các Bên là nước đang phát triển và các Bên là các nước có  nền kinh tế trong thời kỳ quá độ,  trong việc soạn thảo và truyền thông các thông tin được yêu cầu theo các điều khoản của Công ước;
(d) chuẩn bị các bản báo cáo về hoạt động  theo Công ước theo hướng dẫn của hội nghị các Bên và nộp báo cáo tới hội nghị các Bên;
(e)  đảm bảo sự điều phối cần thiết các tổ chức, đại diện quốc tế và vùng theo hướng dẫn của hội nghị các Bên;
(f)  tham gia vào các thỏa thuận hành chính hoặc hợp đồng, trên cơ sở các hướng dẫn chung của hội nghị các Bên, để thực hiện có hiệu quả chức năng của mình. 
(g) thực hiện các chức năng của ban thư ký đã được qui định  trong Công ước và trong bất kỳ nghị định thư nào của Công ước và các chức năng khác  được xác định qua hội nghi các Bên.
Điều 25: Mối liên quan giữa Hội nghị các Bên với các tổ chức  liên chính phủ .
Nhằm cung cấp sự hợp tác kỹ thuật và tài chính để đạt được mục tiêu của Công ước này, Hội nghị các Bên có thể yêu cầu sự hợp tác của các tổ chức quốc tế có năng lực  và các tổ chức liên chính phủ khu vực bao gồm các  tổ chức tài chính và phát triển.
Điều 26: Các nguồn lực tài chính
1. Các Bên công nhận vai trò quan trọng của nguồn lực tài chính để đạt được mục tiêu của Công ước này.
2. Mỗi Bên sẽ hỗ trợ về tài chính liên quan đến các hoạt động quốc gia được dự kiến nhằm đạt mục tiêu của Công ước phù hợp với các kế hoạch, các ưu tiên và các chương trình quốc gia.
3. Các Bên sẽ  đẩy mạnh, một cách phù hợp, sử dụng các kênh song phương, đa phương,  khu vực và tiểu khu vực để cung cấp tài trợ cho việc phát triển và  tăng cường  các chương trình  kiểm soát thuốc lá toàn diện và đa ngành của các Bên là nước đang phát triển và các Bên là những nền kinh tế  quá độ.  Theo đó, là các hoạt động khả thi về kinh tế nhằm thay thế sản xuất thuốc là, kể cả đa dạng hoá  mùa màng cần được đề cập và hỗ trợ trong  hoàn cảnh của các chiến lược phát triển bền vững do quốc gia xây dựng.
4. Các Bên có đại diện trong các tổ chức khu vực và liên chính phủ quốc tế  và các  tổ chức tài chính và phát triển có liên quan sẽ khuyến khích các tổ chức này  hỗ trợ  về tài chính cho các Bên là nước đang phát triển và các Bên là các nước đang trong thời kỳ quá độ để hỗ trợ họ trong thực hiện các nghĩa vụ theo Công ước mà không hạn chế các quyền tham gia vào các tổ chức này.
5. Các bên đồng ý rằng:
(a) để trợ giúp các Bên thực hiện nghĩa vụ theo Công ước,  mọi nguồn tài chính tiềm tàng và hiện có về tài chính, kỹ thuật và các lĩnh vực khác kể cả tư nhân và nhà nước sẵn có  để cung cấp cho các hoạt động  kiểm soát thuốc lá  cần được huy động và sử dụng vì lợi ích của tất cả các Bên, đặc biệt là các nước đang phát triển và các nước có nền kinh tế đang ở thời kỳ quá độ;
(b) ban thư ký sẽ tư vấn cho các Bên là nước đang phát triển và các Bên là các nước đang  quá độ, theo yêu cầu, về các nguồn tài trợ sẵn có nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho việc thực các nghĩa vụ của họ theo Công ước;
(c) trong  phiên họp đầu tiên, hội nghị các Bên sẽ xem lại các nguồn và cơ chế hỗ trợ tiềm tàng dựa trên một nghiên cứu do Ban thư ký thực hiện và các thông tin liên quan khác, xem xét tính đầy đủ của các thông tin này; và
(d) kết quả của  việc xem lại này sẽ được Hội nghị các Bên xem xét để xác định  sự cần thiết phải tăng cường cơ chế hiện nay hoặc thành lập  một quỹ tình nguyện  toàn cầu hoặc các cơ chế tài chính phù hợp khác nhằm chuyển các nguồn lực tài chính bổ sung, tuỳ theo nhu cầu, cho các Bên là nước đang phát triển và các Bên có nền kinh tế quá độ.
Phần IX: Giải quyết tranh chấp
Điều 27: Giải quyết tranh chấp
1. Trong trường hợp có tranh chấp giữa  hai hoặc nhiều Bên liên quan  đến việc  giải thích hay áp dụng Công ước này, các Bên  liên quan sẽ tìm cách thông qua các kênh ngoại giao  để giải quyết tranh chấp thông qua thương lượng hay  bất kỳ  biện pháp hoà bình khác họ tự lựa chọn bao gồm  giúp đỡ thiện chí, trung gian hoặc hoà giải. Nếu không đạt được thoả thuận bằng các biện pháp giúp đỡ thiện chí, trung gian hoặc hoà giải  thì sẽ không miễn trách các Bên tranh chấp khỏi trách nhiệm tiếp tục tìm kiếm phương thức giải quyết tranh chấp.
2. Khi phê chuẩn, chấp nhận, phê duyệt, chính thức khẳng định  hoặc tán thành Công ước này, hoặc  vào bất kỳ thời  điểm nào sau đó,  một tổ chức Nhà nước hay hội nhập kinh tế khu vực có thể thông báo bằng văn bản tới Người giữ văn kiện rằng đối với một tranh chấp không giải quyết được theo  đoạn 1 của  Điều này, tổ chức này chấp nhận, mang tính bắt buộc, sự phân xử  trọng tài đặc biệt theo các thủ tục sẽ được thực hiện  với sự nhất trí của Hội nghị các Bên. 
3. Các  quy định trong Điều  này sẽ áp dụng liên quan đến bất kì nghị định thư nào  được ký giữa các Bên  tham gia nghị định thư trừ khi  được quy định  khác đi trong nghị định đó.
Phần X: Phát triển công ước
Điều 28: Sửa đổi Công ước
1. Bất kỳ Bên nào cũng có thể đề nghị các sửa đổi  đối với Công ước này. Các sửa đổi  như vậy sẽ được xem xét bởi Hội nghị các Bên
2. Các sửa đổi  đối với Công ước sẽ được thực hiện bởi Hội nghị các Bên.  Văn bản về  bất kỳ sự sửa đổi nào được đề xuất cũng sẽ được Ban thư ký gửi tới các Bên ít nhất 6 tháng trước phiên họp tại đó việc sửa đổi được dự kiến thông qua. Ban thư ký cũng sẽ truyền đạt các đề xuất sửa đổi  tới các  bên ký Công ước và  thông báo tới  Người giữ văn kiện
3. Các Bên sẽ  cố gắng hết sức để  đi đến nhất trí thoả thuận về bất kỳ  sửa đổi nào  đối với Công ước. Nếu mọi cố gắng  đi đến nhất trí đã cạn kiệt  mà vẫn không thoả thuận được  thì  biện pháp cuối cùng cho việc sửa đổi sẽ được quyết định bởi 2/3 đa số phiếu trong tổng số các Bên  có mặt tại cuộc họp. Vì các mục đích của Điều này các Bên có mặt và  bỏ phiếu có nghĩa là các Bên  có mặt  bỏ phiếu phê chuẩn hoặc không phê chuẩn. Bất kỳ khoản bổ sung nào được thông qua cũng sẽ được Ban thư ký truyền đạt tới Người giữ văn kiện và cơ quan này sẽ luân chuyển tới  các Bên để chấp nhận sự điều chỉnh.
4. Các văn bản chấp thuận sửa đổi sẽ được lưu tại Người giữ văn kiện.  Một sửa đổi được  thông qua theo đoạn 3 của Điều  này sẽ có hiệu lực đối với các Bên đã chấp nhận  sửa đổi vào ngày thứ 90 sau khi Người giữ văn kiện nhận được văn bản chấp thuận của 2/3 các Bên tham gia Công ước này.
5. Việc sửa đổi sẽ có hiệu lực đối với  bất kỳ bên nào Bên khác kể từ ngày thứ 90 sau ngày mà Bên đó gửi cho Người giữ văn kiện văn bản chấp thuận điều chỉnh nói trên.
Điều 29: Thông qua và sửa đổi các phụ lục của Công ước này
1. Các phụ lục của Công ước và các điều chỉnh cho Phụ lục sẽ được đề xuất, thông qua và sẽ có hiệu lực theo các thủ tục nêu tại Điều  28.
2. Các phụ lục của Công ước này sẽ là một bộ phận của Công ước, và tham chiếu tới Công ước cũng đồng thời là tham chiếu tới các phụ lục này, trừ phi có qui định khác.
3. Các phụ lục sẽ được giới hạn ở các danh sách,  biểu mẫu và bất kỳ tài liệu mô tả nào khác liên quan đến các vấn đề về thủ tục, khoa học, kỹ thuật hoặc hành chính .
Phần XI: các điều khoản cuối cùng
Điều  30: Bảo lưu
Không có sự bảo lưu nào được phép thực hiện đối với Công ước này
Điều 31: Rút lui khỏi Công ước
1. Vào bất cứ thời điểm nào sau 2 năm kể từ  ngày Công ước có hiệu lực đối với một Bên, Bên đó có thể rút  lui khỏi Công ước bằng cách gửi văn bản thông báo tới Người giữ văn kiện
2. Bất kỳ việc rút lui nào như vậy sẽ có hiệu lực sau khi hết 1 năm kể từ khi Người giữ văn kiện nhận thông báo xin rút lui hoặc hoặc vào một ngày sau đó như được nêu cụ thể trong thông báo  rút lui.
3. Bất kỳ một Bên nào rút khỏi Công ước sẽ được xem xét như rút khỏi bất kỳ một nghị định thư nào cho Bên đó.
Điều 32:  Quyền bỏ phiếu
1. Mỗi Bên tham gia Công ước này có quyền bỏ phiếu. Trường hợp ngoại lệ tham khảo ở đoạn 2 của Điều khoản  này
2. Các tổ chức hội nhập kinh tế khu vực, trong các vấn đề thuộc thẩm quyền của họ sẽ sử dụng quyền bỏ phiếu với số phiếu bầu bằng số nước thành viên tham gia Công ước. Tổ chức sẽ không sử dụng quyền bỏ phiếu của họ nếu một nước nào đó trong các nước thành viên sử dụng quyền bỏ phiếu của tổ chức và ngược lại.
3. Bất kỳ Bên nào rút lui khỏi Công ước cũng sẽ được coi là đã rút khỏi bất cứ nghị định thư nào trong đó Bên đó là một bên tham gia.
Điều 33: Các Nghị định thư
1. Bất kỳ Bên nào cũng có thể đề  xuất các nghị định thư. Các đề nghị như vậy sẽ được Hội nghị các Bên xem xét.
2. Hội nghị các Bên có thể thông qua các nghị định thư cho Công ước này. Trong khi thông qua các nghị định thư này, mọi cố gắng sẽ được  thực hiện để đạt được sự nhất trí.  Nếu  mọi cố gắng để đi đến nhất trí không thành công, thì  nghị định thư sẽ được  thông qua với biện pháp cuối cùng là bằng đa số phiếu của các Bên có mặt và bỏ phiếu trong  phiên họp. Vì các mục đích của Điều này, các Bên có mặt có nghĩa là các Bên  có mặt và bỏ phiếu thuận hoặc phiếu chống.
3. Văn bản của bất kì nghị định thư được đề xuất nào cũng sẽ được Ban Thư ký  truyền đạt tới  các Bên  ít nhất 6 tháng trước  phiên họp tại đó nó được đề xuất thông qua.
4. Chỉ có các Bên  trong Công ước này mới  được tham gia vào nghị định thư.
5. Bất kỳ nghị định thư nào của Công ước cũng sẽ  chỉ  ràng buộc đối với các Bên ký Nghị định thư liên quan. Chỉ có các bên của nghị định thư mới có thể ra các quyết định về các vấn đề liên quan riêng đến nghị định thư cụ thể đó.
6. Các yêu cầu về thời gian bắt đầu có hiệu lực của bất kỳ nghị định thư cũng sẽ do văn  bản đó quy định.
Điều 34: Chữ ký
Công ước này sẽ để ngỏ để lấy chữ ký của mọi Thành viên của Tổ chức Y tế Thế giới và của bất kỳ Quốc gia nào không phải thành viên của Tổ chức Y tế Thế giới nhưng là thành viên của Liên Hiệp quốc và của các tổ chức hội nhập kinh tế khu vực tại Tổng hành dinh của Tổ chức Y tế Thế giới tại  Giơ-ne-vơ từ ngày 16 tháng 6 năm 2003  tới ngày 22 tháng 6 năm 2003 và sau đó tại  Tổng hành dinh của Liên Hiệp quốc tại  Niu-Oóc từ ngày 30 tháng 6 năm 2003 tới ngày 29 tháng 6 năm 2004.
Điều 35: Phê chuẩn, chấp nhận, tán thành, khẳng định hay tham gia chính thức
1. Công ước này  sẽ  tuỳ thuộc vào sự phê chuẩn, chấp nhận, tán thành hay tham gia  của các  Quốc gia  vào sự khẳng định hoặc tham gia chính thức  của các tổ chức hội nhập kinh tế  khu vực. Công ước sẽ được để ngỏ cho các Bên tham gia kể từ sau ngày kết thúc việc ký Công ước. Các văn kiện phê chuẩn,  chấp nhận, tán thành, khẳng định hay tham gia chính thức sẽ được lưu tại Người giữ văn kiện.
2. Bất kì một tổ chức hội nhập kinh tế khu vực nào trở thành một Bên của Công ước này mà không có Quốc gia Thành viên  nào  tham gia Công ước sẽ  bị ràng buộc bởi mọi  nghĩa vụ theo Công ước. Trong trường  hợp trong số các tổ chức này,  có một hay nhiều  Quốc gia Thành viên  là một Bên tham gia Công ước, thì tổ chức và các Quốc gia Thành viên sẽ quyết định các trách nhiệm tương ứng của mình để thực hiện các nghĩa vụ của mình theo Công ước. Trong các trường hợp trên, tổ chức và các Quốc gia Thành viên sẽ không được  quyền thực hiện kiêm nhiệm các quyền  theo cùng một Công ước
3. Các tổ chức hội nhập kinh tế  khu vực, trong các văn bản của họ liên quan đến việc khẳng định chính thức hoặc trong các văn bản về sự tham gia, sẽ tuyên bố phạm vi  thẩm quyền của  mình  liên quan đến các vấn đề  do Công ước chi phối. Các tổ chức này cũng sẽ thông báo cho Người giữ văn kiện.  Phòng Lưu giữ sẽ thông báo tới các Bên về bất kỳ một sự điều chỉnh  quan trọng nào trong  phạm vi thẩm quyền của mình.
Điều 36: Bắt đầu có hiệu lực
1. Công ước này sẽ có hiệu lực vào ngày thứ 90 sau  ngày  nộp các văn kiện  thứ 40 về việc phê chuẩn, chấp nhận, tán thành, khẳng định hay tham gia chính thức tại Người giữ văn kiện.
2. Đối với mỗi  Quốc gia phê chuẩn,  chấp nhận hoặc tán thành Công ước hoặc tham gia Công ước này sau khi các điều kiện  nêu tại đoạn 1 của điều  này  về việc bắt đầu hiệu lực  đã được thoả mãn, Công ước sẽ có hiệu lực từ ngày thứ 90 sau  ngày nộp các văn kiện về phê chuẩn, chấp nhận, tán thành hay xin gia nhập .
3. Đối với  mỗi tổ chức hội nhập kinh tế khu vực nộp văn bản chính thức chấp thuận  hay đơn  xin tham gia sau khi các điều kiện nêu tại đoạn 1 của Điều này về việc bắt đầu có hiệu lực đã được thoả mãn, Công ước sẽ có hiệu lực vào ngày thứ 90 sau ngày nộp văn kiện  khẳng định chính thức hay xin tham gia.
4. Vì các mục đích của Điều  này, bất kỳ văn kiện nào được tổ chức hội nhập kinh tế khu vực nộp lên sẽ không được tính là  bổ sung cho các văn kiện  do các Quốc gia Thành viên của tổ chức này nộp lên.
Điều 37: Người giữ văn kiện
Tổng Thư ký Liên hiệp quốc sẽ là người giữ văn kiện của Công ước này và các văn bản sửa đổi Công ước, các nghị định thư và các phụ lục được thông qua theo các Điều 28, 29, và 33.
Điều 38: Văn bản gốc
Bản gốc của Công ước này, trong đó các văn bản  bằng tiếng ả rập, Trung quốc, Anh, Pháp, Nga, và Tây ban Nha  đều có giá trị pháp lý như nhau, sẽ được lưu trữ tại Tổng thư ký Liên hiệp quốc.
Chứng kiến những điều viết ở trên, những người ký tên dưới đây, được uỷ nhiệm để ký, đã ký vào Công ước này.
Làm tại Giơ-ne-vơ  vào [ngày, tháng] năm 2003.
[1] ở những nơi phù hợp , quốc gia sé được coi tương đương như các tổ chức hội nhập kinh tế khu vực
[2] Đã có các cuộc thảo luận đáng kể trong suốt quá trình trước và trong đàm phán liên quan đến việc thông qua một nghị định thư sớm về buôn bán trái phép các sản phẩm thuốc lá. Việc đàm phán về một nghị định thư như vậy có thể được bắt đầu bởi Cơ quan Đàm phán Liên Chính phủ (INB) ngay sau khi thông qua FCTC hoặc ở một giai đoạn muộn hơn bởi Hội nghị các Bên.
Trang inGửi bạn bè Chia sẻ trên facebook  Chia sẻ trên twitterThảo luậnXem thảo luận
Thiết kế web: OnIP™